Một nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa việc sử dụng kháng sinh của người mẹ trong thai kỳ và nguy cơ mắc bệnh dị ứng ở trẻ em dưới 3 tuổi. Các bệnh lý bao gồm hen phế quản ở trẻ em trước tuổi đi học, khò khè, dị ứng thực phẩm (FA), viêm da cơ địa (AD), chàm, viêm mũi-kết mạc dị ứng và các bệnh dị ứng khác.
Dị ứng ở trẻ em ngày càng phổ biến. Mặc dù đây là các tình trạng viêm mạn tính thường gặp, dị ứng thường đi kèm các bệnh khác như béo phì và rối loạn giấc ngủ, làm giảm chất lượng cuộc sống của trẻ. Một nghiên cứu gần đây được công bố trên The Journal of Allergy and Clinical Immunology: Global đã chỉ ra có mối liên quan giữa việc người mẹ sử dụng kháng sinh trong thai kỳ với bệnh dị ứng ở trẻ em lên 3 tuổi.
*Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Tổng cộng 78.678 phụ nữ đang mang thai và con của họ (độ tuổi từ 0 đến 3) được thu thập vào nghiên cứu. Tiêu chí loại trừ bao gồm sinh bằng phương pháp sinh mổ, cân nặng của trẻ sơ sinh ≥ 4000 g hoặc <1000 g và không có thông tin liên quan đến việc sử dụng kháng sinh. Các biến số kết quả của nghiên cứu bao gồm hen phế quản ở trẻ trước tuổi đi học, khò khè, dị ứng thực phẩm, viêm da cơ địa, chàm, viêm mũi-kết mạc dị ứng và bất kỳ bệnh dị ứng nào. Tỷ lệ mắc bệnh dị ứng được đánh giá dựa trên chẩn đoán của bác sĩ từ bảng câu hỏi ở từng lứa tuổi được người chăm sóc trẻ tự báo cáo.
Phơi nhiễm kháng sinh trước khi sinh được định nghĩa là việc sử dụng các loại thuốc kháng khuẩn trong thai kỳ. Thông tin về việc phơi nhiễm kháng sinh trước khi sinh được thu thập thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn được các bà mẹ trả lời khi đăng ký tham gia (ví dụ: “Bạn có dùng bất kỳ loại kháng sinh nào trong khoảng thời gian từ khi xác nhận mang thai đến khi thai được 12 tuần không?” và “Bạn có dùng bất kỳ loại kháng sinh nào từ thời điểm thai được 12 tuần đến hiện tại không?”) và kể cả trong giai đoạn từ giữa đến cuối thai kỳ, và hồ sơ bệnh án sau khi sinh. Hơn nữa, thời điểm phơi nhiễm với kháng sinh được chia thành: 3 tháng đầu thai kì (T1) và 3 tháng giữa/3 tháng cuối (T2/T3).
*Kết quả của nghiên cứu
Kết quả chỉ ra rằng việc sử dụng kháng sinh của người mẹ có liên quan đến việc gia tăng nguy cơ dị ứng đường hô hấp ở trẻ, đặc biệt là bệnh hen phế quản ở trẻ trước tuổi đi học, viêm mũi-kết mạc dị ứng, khò khè và các bệnh dị ứng ở trẻ dưới 3 tuổi. Bên cạnh đó, các kết quả cho thấy việc sử dụng kháng sinh ở người mẹ lại không góp phần làm tăng nguy cơ dị ứng thực phẩm, viêm da cơ địa và chàm. Trong tổng số 78.678 người mẹ tham gia nghiên cứu, có 22.433 (28,5%) người đã dùng kháng sinh trong thai kỳ. Với các trẻ bị hen phế quản ở độ tuổi trước đi học, số người mẹ phơi nhiễm và không phơi nhiễm với kháng sinh lần lượt là 10,8% và 12,5%. Tỷ lệ này với thở khò khè là không phơi nhiễm: 38,2% và phơi nhiễm: 41,6%; với dị ứng thực phẩm là không phơi nhiễm: 12,8% và phơi nhiễm: 13,2%; với viêm da cơ địa là không phơi nhiễm: 11,3% và phơi nhiễm: 11,7%; với viêm da cơ địa là không phơi nhiễm: 28,6% và phơi nhiễm: 28,9%, với viêm mũi dị ứng là không phơi nhiễm: 8,0% và phơi nhiễm: 9,1% với và các bệnh dị ứng ở trẻ dưới 3 tuổi là không phơi nhiễm: 59,6% và phơi nhiễm: 62,5%. Theo các nhà nghiên cứu, các kết quả này không bị ảnh hưởng bởi thời gian phơi nhiễm kháng sinh, giới tính của trẻ sơ sinh hay tiền sử dị ứng của người mẹ, ngoại trừ nguy cơ bị viêm kết-mạc mũi dị ứng ở trẻ có mẹ không có tiền sử dị ứng.
Kết quả của nghiên cứu này tương đồng với nghiên cứu trước đó. Một tổng quan hệ thống gồm 12 nghiên cứu về việc sử dụng kháng sinh trong thời kỳ mang thai đã cho thấy hen phế quản và khò khè ở trẻ em có liên quan đến việc sử dụng kháng sinh trong thai kỳ (OR hiệu chỉnh [aOR] = 1,29 [95% Cl = 1,16-1,43]).
Hạn chế của việc nghiên cứu bao gồm việc thiếu dữ liệu để đánh giá sự ảnh hưởng của loại kháng sinh, liều lượng và việc sử dụng kháng sinh. Việc đánh giá tình trạng dị ứng phụ thuộc vào báo cáo của người chăm sóc, có thể có sai lệch hồi tưởng và không thể chẩn đoán chính xác bệnh hen phế quản ở trẻ dưới 3 tuổi. Hơn nữa, nhóm nghiên cứu lưu ý rằng, việc sử dụng kháng sinh ở 18.270/22.433 người (81.4%) được xác nhận sau khi xem xét hồ sơ bệnh án, 4163 người còn lại (chiếm 18,6%) được xác nhận dựa trên bộ câu hỏi, do đó, có thể thêm nguy cơ sai sót của sai lệch hồi tưởng. Nhóm nghiên cứu đề xuất các nghiên cứu trong tương lai cần cân nhắc về loại, liều lượng và việc sử dụng kháng sinh.
*Kết luận